Sức khỏe và chế độ dinh dưỡng.pdf – Tài liệu text

Sức khỏe và chế độ dinh dưỡng.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.77 KB, 6 trang )

Dinh dưỡng và sức khoẻ ǎn uống và sức khỏe càng ngày càng được chú ý và có nhiều nghiên cứu chứng minh sự liên quan chặt chẽ giữa ǎn uống và sức khỏe. ǎn uống không chỉ là đáp ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày, mà còn là biện pháp để duy trì và nâng cao sức khỏe và tǎng tuổi thọ. Vấn đề ǎn đã được đặt ra từ khi có loài người, lúc đầu chỉ nhằm giải quyết chống lại cảm giác đói và sau đó người ta thấy ngoài việc thỏa mãn nhu cầu bữa ǎn còn đem lại cho người ta niềm vui. Ngày nay vấn đề ǎn còn liên quan đến sự phát triển và là yếu tố quan trọng cho sự phát triển cho cộng đồng, khu vực và cả một đất nước. Đi đầu trong nghiên cứu vấn đề ǎn uống và sức khỏe là các thầy thuốc. Qua quan sát và nghiên cứu đã chứng minh nhiều yếu tố ǎn uống liên quan đến bệnh tật và sức khỏe.

I. LịCH Sử PHáT TRIểN CủA KHOA HọC DINH DƯỡNG

1. Những quan niệm trước đây:

Từ trước công nguyên các nhà y học đã nói tới ǎn uống và cho ǎn uống là một phương tiện để chữa bệnh và giữ gìn sức khỏe. Hypocrát (460-377) trước công nguyên đã chỉ ra vai trò của ǎn bảo vệ sức khỏe và khuyên phải chú ý, tùy theo tuổi tác, thời tiết, công việc mà nên ǎn nhiều hay ít, ǎn một lúc hay rải ra nhiều lần. Hypocrat nhấn mạnh về vai trò ǎn trong điều trị. ông viết “Thức ǎn cho bệnh nhân phải là một phương tiện điều trị và trong phương tiện điều trị của chúng ta phải có dinh dưỡng”. ông cũng nhận xét “Hạn chế và ǎn thiếu chất bổ rất nguy hiểm đối với người mắc bệnh mạn tính”. ở nước ta Tuệ Tĩ nh thế kỉ thứ XIV trong sách “Nam dược thần hiệu” đã đề cập nhiều đến tính chất chữa bệnh của thức ǎn và có những lời khuyên ǎn uống trong một số bệnh và ông đã phân biệt ra thức ǎn hàn nhiệt. Hải Thượng Lãn ông một danh y Việt Nam thế kỉ XVIII cũng rất chú ý tới việc ǎn uống của người bệnh. ông viết Có thuốc mà thông có ǎn uống thì cũng đi đến chỗ chết. Đối với người nghèo không những ông thǎm bệnh, cho thuốc không lấy tiền mà còn trợ giúp cá gạo và thực phẩm cần thiết cho người bệnh. Trong cuốn Nữ Công Thắng Lãm còn ghi 200 món ǎn.

2. Các mốc phát triển của dinh dưỡng học:

Sidengai người Anh có thể coi là người thừa kế nhưng ý tưởng của Hypocrat, ông đã cho rằng “Để nhằm mục đích điều trị cũng như phòng bệnh trong nhiều bệnh chỉ cần cho ǎn những chế độ ǎn thích hợp và sống một đời sống có tổ chức hợp lý, Sidengai cũng chống lại sự mê tín thuốc men và yêu cầu lấy bếp thay phòng bào chế “. Cùng thời với ông còn có Hacvay một người tìm ra tuần hoàn máu trong cơ thể. Hacvay cũng rất chú ý đến chế độ ǎn (diet) trong đó còn một chế độ ǎn hạn chế mở trong một số bệnh đến nay được gọi là chế độ ǎn Bentinh tên một bệnh nhân của Hacvay sau khi ǎn điều trị có kết quả đã tuyên truyền rất nhiêu chế độ ǎn này. Từ cuối thế ky XVII những nghiên cứu về vai trò sinh nǎng lượng của thức ǎn với những công trình của Lavoadie (1743-1794) đã chứng minh thức ǎn vào cơ thể được chuyển hóa sinh nǎng lượng.

Liebig (1803-1873) đã có những công trình nghiên cứu chứng minh trong thức ǎn những chất sinh nǎng lượng là protein, lipit và gluxit. Đồng thời có Magendi nghiên cứu vai trò của Protein rất quan trọng đối với sự sống sau này, nǎm 1838 Mulder đã đề nghị đặt tên chất đó là protein. Nhưng nghiên cứu về cân bằng nǎng lượng Voit (1831-1908) của P.Rubner (1854-1932) đã chế tạo ra buồng đo nhiệt lượng và chứng minh được định luật bảo toàn nǎng lượng áp dụng cho cơ thể sống. Những nghiên cứu về vitamin mở đầu gắn liền với bệnh hoại huyết của thủy thủ mà Giem Cook đã khuyên là chế độ ǎn của thủy thủ cần uống nước chanh hoa quả (1728-1779). Sau đó là những nghiên cứu của Eikman (1858-1930) đã tìm ra nguyên nhân của bệnh Beriberi vào nǎm 1886 ở đảo Java Indonexia sau đó 30 nǎm, nǎm 1897 J.A.Funk đã tìm ra chất đó là vitamin B1.

Tiếp theo các công trình nghiên cứu Bunghe và Hopman nghiên cứu về vai trò của muối khoáng.Noocden nǎm 1893 tổ chức ở Beclin lớp học cho các bác sĩ về vấn đề chuyển hóa, vấn đề ǎn
cho bệnh nhân. Cùng thời gian này (1897) Páplốp đã xuất bản Bài giảng về hoạt động của các tuyến tiêu hóa chính. Công trình của nhà sinh lý học thiên tài Nga đã đặt ra trước thế giới con đường hoàn toàn mới mẻ và độc đáo về cách thực nghiệm và lâm sàng trong lĩnh vực sinh lý và bệnh lý bộ máy tiêu hóa và có một ảnh hưởng rất lớn trong phát triển ngành dinh dưỡng.

Từ cuối thế kỷ 19 tới nay, những công trình nghiên cứu về vai trò của các axít amin các vitamin, các axit béo không no, các vi lượng dinh dưỡng ở phạm vi tế bào, tổ chức và toàn cơ thể đã góp phần hình thành, phát triển và đưa ngành dinh dưỡng lên thành một môn học. Cùng với những nghiên cứu về bệnh suy dinh dưỡng protein nǎng lượng của nhiều tác giả như Gomez 1956, Jelliffe 1959, Welcome 1970, Waterlow 1973. Những nghiên cứu về thiếu vi chất như thiếu vitamin A và bệnh khô mắt (Bitot 1863, M. Collum 1913, Block 1920 ), thiếu máu thiếu sát, thiếu kẽm cũng có nhiều nghiên cứu giải thích mối quan hệ nhân quả và các chương trình can thiệp ở cộng đồng. Không những chế với sự phát triển của ngành dinh dưỡng và y học cộng đồng hướng tới sức khỏe cho mọi người dân đến nǎm 2000 đã có cả một chương trình hành động về dinh dưỡng.

Xem thêm: Quả mâm xôi giúp giảm đường huyết chỉ sau 30 phút

II. Mối quan hệ giữa dinh dưỡng và khoa học thực phẩm

Những nghiên cứu dinh dưỡng cơ bản đã có những phát triển đáng kể, đưa ra được nhu cầu đề nghị thích hợp. Tuy nhiên để đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng cho mọi người cần có sự phối hợp liên ngành để đảm bảo cung cấp lương thực và thực phầm đáp ứng nhu cầu. Trước tiên là giải quyết vấn đề sản xuất nhiều lương thực và thực phẩm, giải quyết vấn đề lưu thông phân phối, giải quyết việc làm, tǎng thu nhập để đảm bảo khả nǎng mua thực phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm cho cá thể, gia đình, cộng đồng, khu vực và toàn xã hội.
Trong các hội nghị quốc tế về dinh dưỡng người ta đã khẳng định việc phối hợp giữa dinh dưỡng và ngành nông nghiệp, chế biến thực phẩm và ngành kinh tế học để tiến hành các can thiệp dinh dưỡng có hiệu quả. Ngày nay việc phối giữa dinh dưỡng và thực phẩm được thể hiện qua khoa học “Dinh dưỡng ứng dụng” ( Applied nutrltion )

Khoa học dinh dưỡng ứng dụng bao gồm từ việc nghiên cứu tập tục ǎn uống, mức tiêu thụ lương thực thực phẩm đến các chương trình và biện pháp sản xuất bảo quản, chế biến, lưu thông phân phối, và chính sách giá cả thực phẩm nhằm nâng cao và cải thiện bữa ǎn, kể cả các biện pháp kinh tế, quản lý nhằm tạo ra kết quả thanh toán nạn đói, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao tình trạng dinh dưỡng kinh tế nhất và phù hợp với khả nǎng kinh tế của cộng đồng, khu vực và quốc gia.

Dinh dưỡng ứng dụng cũng đề cập tới vấn đề giáo dục dinh dưỡng cung cấp kiến thức về dinh dưỡng và ǎn uống hợp lý để có sức khỏe, cũng như kiến thức chǎm sóc và nuôi dưỡng trẻ phòng tránh các bệnh thiếu dinh dưỡng. Trong dinh dưỡng ứng dụng việc tiến hành theo dõi và giám sát tình hình dinh dưỡng và thực phẩm ở các địa phương để phát hiện những vấn đề dinh dưỡng thực phẩm để có những biện pháp can thiệp kịp thời. Để có được những hoạt động dinh dưỡng có hiệu quả, những kiến thức dinh dưỡng cũng ngày càng được sáng tỏ phân tích mối liên quan giữa dinh dưỡng và sức khỏe, các kiến thức về nhu cầu dinh dưỡng, mối liên quan của các yếu tố vì chất dinh dưỡng và bệnh tật, mối quan hệ giữa các axit béo chưa no với các bệnh mạn tính…

Để giải quyết những vấn đề lớn của thiếu dinh dưỡng ở các nước đang phát triển và thừa dinh
dưỡng ở các nước phát triển cần có sự phối hợp của nhiều ngành. Đó là sự phối hợp giữa các
ngành y tế, nông nghiệp kế hoạch, kinh tế, xã hội học, giáo dục trên cơ sở thực hiện một chương
trình dinh dưỡng ứng dụng thích hợp đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, phù hợp với điều kiện kinh
tế, và dựa vào tình hình sản xuất lương thực, thực phẩm cụ thể ở các vùng sinh thái.

III. NHữNG VấN Đề DINH DƯỡNG LớN HIệN NAY

Về mặt dinh dưỡng, thế giới hiện nay đang sống ở hai thái cực trái ngược nhau hoặc bên bờ vực thẳm của sự thiếu ǎn, hoặc bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn. Trên thế giới hiện nay vẫn còn gần 780 triệu người tức là 20% dân số của các nước đang phát triển không có đủ lương thực, thực phẩm để đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng cơ bản hàng ngày. 192 triệu trẻ em bị suy dinh dưỡng protein nǎng lượng và phần lớn nhân dân các nước đang phát triển bị thiếu vi chất; 40 triệu trẻ em bị thiếu vitamin A gây khô mắt và có thể dẫn tới mù lòa, 2000 triệu người thiếu sắt gây thiếu máu và 1000 triệu người thiếu iốt trong đó có 200 triệu người bị bướu cổ, 26 triệu người bị thiểu trí và rối loạn thần kinh và 6 triệu bị đần độn. Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2,5 kg ở các nước phát triển là 6% trong khi ở các nước đang phát triển lên tới 19%. Tỷ lệ tử vong có liên quan nhiều đến suy dinh dưỡng ở các nước phát triển chỉ có 2% trong khi đó ở các nước đang phát triển là 12% và các nước kém phát triển tỷ lệ này lên tới 20% (Tỷ lệ này được tính với 100 trẻ sinh ra sống trong nǎm).
Theo ước tính của FAO sản lượng lương thực trên thế giới có đủ để đảm bảo nhu cầu nǎng lượng cho toàn thể nhân loại. Nhưng vào những nǎm cuối của thập kỷ 80 mới có 60% dân số thế giới được đảm bảo trên 2600 Kcal/người/ngày và vẫn còn 11 quốc gia có mức ǎn quá thấp dưới
2000 Kcalo/người/ngày.
Hậu quả của nạn thiếu ǎn về mặt kinh tế rất lớn. Theo cuốn sách “Giá trị cuộc sống”, nếu một người chết trước 15 tuổi thì xã hội hoàn toàn lỗ vốn, nếu có công việc làm ǎn đều đặn thì một người phải sống đến 40 tuổi mới trả xong hết các khoản nợ đời, phải lao động và sống ngoài 40 tuổi mới làm lãi cho xã hội. Ghosh cũng đã tính là ở ấn Độ, 22% thu nhập quốc dân đã bị hao phí vào đầu tư không hiệu quả, nghĩa là để nuôi dưỡng những đứa trẻ chết trước 15 tuổi. Thiếu ǎn, thiếu vệ sinh là cơ sở cho các bệnh phát triển. ở châu Phi mỗi nǎm có 1 triệu trẻ em dưới 1 tuổi chết vì sốt rét. Trực tiếp hay gián tiếp trẻ em dưới 5 tuổi ở các nước đang phát triển bị chết do nguyên nhân thiếu ǎn tới 50%. Ziegler nghiên cứu về tai họa của nạn thiếu ǎn, đặc biệt là châu Phi đã đi đến kết luận “Thế giới mà chúng ta đang sống là một trại tập trung hủy diệt lớn vì mỗi ngày ở đó có 12 nghìn người chết đói”. Ngược lại với tình trạng trên ở các nước công nghiệp phát triển lại đứng bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn, nổi lên sự chênh lệch quá đáng so với các nước đang phát triển.

Ví dụ: Mức tiêu thụ thịt bình quân đầu người hàng ngày ở các nước đang phát triển là 53 gam thì
ở Mỹ là 248 gam. Mức tiêu thụ sữa ở Viễn Đông là 51gam sữa tươi thì ở châu âu là 491 gam, úc
là 574 gam, Mỹ là 850 gam. ở Viễn Đông tiêu thụ trứng chỉ có 3 gam thì ở úc là 31 gam, Mỹ là 35
gam, dầu mỡ ở Viễn Đông là 9 gam thì ở châu âu là 44 gam, Mỹ 56 gam. Về nhiệt lượng ở Viễn
Đông là 2300 Kcalo, ở châu âu 3000 Kcalo, Mỹ 3100 Kcalo, úc 3200kcalo. Nếu nhìn vào mức
tiêu thụ thịt cá thì sự chênh lệch càng lớn, 25% dân số thế giới ở các nước phát triển đã sử dụng
41% tổng protein và 60% thịt cá của toàn thế giới.
Lấy mức ǎn của Pháp làm ví dụ: Mức tiêu thụ thực phẩm nǎm 1976 tính bình quân đầu người là 84 kg thịt ( nǎm 1980 là 106 kg ), 250 quả trứng, 42 kg cá, 15 kg pho mát, 19 kg dầu mỡ, 9 kg bơ, 36 kg đường, 3kg bánh mì, 73 kg khoai tây, 101 kg rau, 58 kg quả, 101 lít rượu vang, 71 lít bia. Mức ǎn quá thừa nói trên đã dẫn đến tình trạng thừa dinh dưỡng. Theo Bour 20% dân Pháp bị bệnh béo phì, béo quá mức. ở những người béo trệ hiện tượng tích lũy mỡ bao bọc ở các cơ quan tǎng lên, thậm chí cả ở tim làm cho khả nǎng co bóp của tim yếu đi. ở những người béo thường mắc bệnh vữa xơ động mạch, khi động mạch vành bị vữa xơ sẽ làm giảm lưu tốc máu, sự nuôi dưỡng tim bị kém. Hậu quả của thừa ǎn ngoài bệnh béo phì còn dẫn đến các bệnh tǎng huyết áp, bệnh đái đường và các cơ quan bị nhiễm mỡ đặc biệt là bệnh thiểu nǎng tim, thiểu nǎng hô hấp, thiểu nǎng thận. Cũng theo Bour 15% dân Pháp bị cao huyết áp, 3% bị đái đường và tỷ lệ tử vong liên quan đến bệnh tim mạch tới 35-40% liên quan chặt chẽ với nạn thừa ǎn. Thực tế ở các nước đang phát triển hiện tượng thừa ǎn chủ yếu là thừa nǎng lượng do protein và nhất là lỉpit, nhưng vẫn thiếu các chất dinh dưỡng khác đặc biệt là các yếu tố vi chất dinh dưỡng.

Ra tuần hoàn máu trong khung hình. Hacvay cũng rất chú ý quan tâm đến chính sách ǎn ( diet ) trong đó còn một chếđộ ǎn hạn chế mở trong 1 số ít bệnh đến nay được gọi là chính sách ǎn Bentinh tên một bệnh nhâncủa Hacvay sau khi ǎn điều trị có hiệu quả đã tuyên truyền rất nhiêu chính sách ǎn này. Từ cuối thế ky XVII những điều tra và nghiên cứu về vai trò sinh nǎng lượng của thức ǎn với những côngtrình của Lavoadie ( 1743 – 1794 ) đã chứng tỏ thức ǎn vào khung hình được chuyển hóa sinh nǎnglượng. Liebig ( 1803 – 1873 ) đã có những khu công trình nghiên cứu và điều tra chứng tỏ trong thức ǎn những chấtsinh nǎng lượng là protein, lipit và gluxit.

Đồng thời có Magendi điều tra và nghiên cứu vai trò của Protein rấtquan trọng so với sự sống sau này, nǎm 1838 Mulder đã ý kiến đề nghị đặt tên chất đó là protein. Nhưng điều tra và nghiên cứu về cân đối nǎng lượng Voit ( 1831 – 1908 ) của P.Rubner ( 1854 – 1932 ) đã chếtạo ra buồng đo nhiệt lượng và chứng tỏ được định luật bảo toàn nǎng lượng vận dụng cho cơthể sống. Những nghiên cứu và điều tra về vitamin khởi đầu gắn liền với bệnh hoại huyết của thủy thủ mà Giem Cookđã khuyên là chính sách ǎn của thủy thủ cần uống nước chanh hoa quả ( 1728 – 1779 ).

Sau đó lànhững nghiên cứu và điều tra của Eikman ( 1858 – 1930 ) đã tìm ra nguyên do của bệnh Beriberi vào nǎm1886 ở hòn đảo Java Indonexia sau đó 30 nǎm, nǎm 1897 J.A.Funk đã tìm ra chất đó là vitamin B1. Tiếp theo những khu công trình nghiên cứu và điều tra Bunghe và Hopman điều tra và nghiên cứu về vai trò của muối khoáng. Noocden nǎm 1893 tổ chức triển khai ở Beclin lớp học cho những bác sĩ về yếu tố chuyển hóa, yếu tố ǎncho bệnh nhân.

Cùng thời hạn này ( 1897 ) Páplốp đã xuất bản Bài giảng về hoạt động giải trí của cáctuyến tiêu hóa chính. Công trình của nhà sinh lý học thiên tài Nga đã đặt ra trước quốc tế conđường trọn vẹn mới lạ và độc lạ về cách thực nghiệm và lâm sàng trong ngành sinh lý vàbệnh lý cỗ máy tiêu hóa và có một tác động ảnh hưởng rất lớn trong tăng trưởng ngành dinh dưỡng. Từ cuối thế kỷ 19 tới nay, những khu công trình nghiên cứu và điều tra về vai trò của những axít amin những vitamin, những axit béo không no, những vi lượng dinh dưỡng ở khoanh vùng phạm vi tế bào, tổ chức triển khai và toàn khung hình đã gópphần hình thành, tăng trưởng và đưa ngành dinh dưỡng lên thành một môn học.

Cùng với nhữngnghiên cứu về bệnh suy dinh dưỡng protein nǎng lượng của nhiều tác giả như Gomez 1956, Jelliffe 1959, Welcome 1970, Waterlow 1973. Những điều tra và nghiên cứu về thiếu vi chất như thiếuvitamin A và bệnh khô mắt ( Bitot 1863, M. Collum 1913, Block 1920 ), thiếu máu thiếu sát, thiếukẽm cũng có nhiều nghiên cứu và điều tra lý giải mối quan hệ nhân quả và những chương trình can thiệp ởcộng đồng. Không những chế với sự tăng trưởng của ngành dinh dưỡng và y học cộng đồnghướng tới sức khỏe cho mọi người dân đến nǎm 2000 đã có cả một chương trình hành vi vềdinh dưỡng.

II. Mối quan hệ giữa dinh dưỡng và khoa học thực phẩmNhững nghiên cứu và điều tra dinh dưỡng cơ bản đã có những tăng trưởng đáng kể, đưa ra được nhu yếu đềnghị thích hợp. Tuy nhiên để cung ứng được nhu yếu dinh dưỡng cho mọi người cần có sự phốihợp liên ngành để bảo vệ cung ứng lương thực và thực phầm cung ứng nhu yếu. Trước tiên làgiải quyết yếu tố sản xuất nhiều lương thực và thực phẩm, xử lý yếu tố lưu thông phân phối, xử lý việc làm, tǎng thu nhập để bảo vệ khả nǎng mua thực phẩm, bảo vệ an toànthực phẩm cho thành viên, mái ấm gia đình, hội đồng, khu vực và toàn xã hội. ‘

Trong những hội nghị quốc tế về dinh dưỡng người ta đã khẳng định chắc chắn việc phối hợp giữa dinh dưỡngvà ngành nông nghiệp, chế biến thực phẩm và ngành kinh tế tài chính học để thực thi những can thiệp dinhdưỡng có hiệu suất cao. Ngày nay việc phối giữa dinh dưỡng và thực phẩm được biểu lộ qua khoahọc ” Dinh dưỡng ứng dụng ” ( Applied nutrltion ). Khoa học dinh dưỡng ứng dụng gồm có từviệc điều tra và nghiên cứu tập tục ǎn uống, mức tiêu thụ lương thực thực phẩm đến những chương trình và biện pháp sản xuất dữ gìn và bảo vệ, chế biến, lưu thông phân phối, và chủ trương Chi tiêu thực phẩm nhằm nâng cao và cải tổ bữa ǎn, kể cả những giải pháp kinh tế tài chính, quản trị nhằm mục đích tạo ra kết quảthanh toán nạn đói, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng, nâng cao thực trạng dinh dưỡng kinh tế tài chính nhất và phù hợp với khả nǎng kinh tế tài chính của hội đồng, khu vực và vương quốc. Dinh dưỡng ứng dụng cũng đề cập tới yếu tố giáo dục dinh dưỡng phân phối kỹ năng và kiến thức về dinhdưỡng và ǎn uống hài hòa và hợp lý để có sức khỏe, cũng như kỹ năng và kiến thức chǎm sóc và nuôi dưỡng trẻphòng tránh những bệnh thiếu dinh dưỡng.

Trong dinh dưỡng ứng dụng việc thực thi theo dõi vàgiám sát tình hình dinh dưỡng và thực phẩm ở những địa phương để phát hiện những yếu tố dinhdưỡng thực phẩm để có những giải pháp can thiệp kịp thời. Để có được những hoạt động giải trí dinhdưỡng có hiệu suất cao, những kỹ năng và kiến thức dinh dưỡng cũng ngày càng được sáng tỏ nghiên cứu và phân tích mốiliên quan giữa dinh dưỡng và sức khỏe, những kỹ năng và kiến thức về nhu yếu dinh dưỡng, mối tương quan củacác yếu tố vì chất dinh dưỡng và bệnh tật, mối quan hệ giữa những axit béo chưa no với những bệnhmạn tính …

Để xử lý những yếu tố lớn của thiếu dinh dưỡng ở những nước đang tăng trưởng và thừa dinhdưỡng ở những nước tăng trưởng cần có sự phối hợp của nhiều ngành. Đó là sự phối hợp giữa cácngành y tế, nông nghiệp kế hoạch, kinh tế tài chính, xã hội học, giáo dục trên cơ sở thực thi một chươngtrình dinh dưỡng ứng dụng thích hợp cung ứng nhu yếu dinh dưỡng, tương thích với điều kiện kèm theo kinhtế, và dựa vào tình hình sản xuất lương thực, thực phẩm đơn cử ở những vùng sinh thái xanh.

III. NHữNG VấN Đề DINH DƯỡNG LớN HIệN NAY

Về mặt dinh dưỡng, quốc tế lúc bấy giờ đang sống ở hai thái cực trái ngược nhau hoặc bên bờ vựcthẳm của sự thiếu ǎn, hoặc bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn. Trên quốc tế lúc bấy giờ vẫn còn gần780 triệu người tức là 20 % dân số của những nước đang tăng trưởng không có đủ lương thực, thựcphẩm để bảo vệ nhu yếu dinh dưỡng cơ bản hàng ngày. 192 triệu trẻ nhỏ bị suy dinh dưỡngprotein nǎng lượng và phần nhiều nhân dân những nước đang tăng trưởng bị thiếu vi chất ; 40 triệu trẻem bị thiếu vitamin A gây khô mắt và hoàn toàn có thể dẫn tới mù lòa, 2000 triệu người thiếu sắt gây thiếumáu và 1000 triệu người thiếu iốt trong đó có 200 triệu người bị bướu cổ, 26 triệu người bị thiểutrí và rối loạn thần kinh và 6 triệu bị đần độn.

Tỷ lệ trẻ sơ sinh có cân nặng dưới 2,5 kg ở cácnước tăng trưởng là 6 % trong khi ở những nước đang tăng trưởng lên tới 19 %. Tỷ lệ tử trận có liênquan nhiều đến suy dinh dưỡng ở những nước tăng trưởng chỉ có 2 % trong khi đó ở những nước đangphát triển là 12 % và những nước kém tăng trưởng tỷ suất này lên tới 20 % ( Tỷ lệ này được tính với 100 trẻ sinh ra sống trong nǎm ). Theo ước tính của FAO sản lượng lương thực trên quốc tế có đủ để bảo vệ nhu yếu nǎnglượng cho toàn thể trái đất. Nhưng vào những nǎm cuối của thập kỷ 80 mới có 60 % dân số thếgiới được bảo vệ trên 2600 Kcal / người / ngày và vẫn còn 11 vương quốc có mức ǎn quá thấp dưới2000 Kcalo / người / ngày. Hậu quả của nạn thiếu ǎn về mặt kinh tế tài chính rất lớn.

Theo cuốn sách ” Giá trị đời sống “, nếu mộtngười chết trước 15 tuổi thì xã hội trọn vẹn lỗ vốn, nếu có công việc làm ǎn đều đặn thì mộtngười phải sống đến 40 tuổi mới trả xong hết những khoản nợ đời, phải lao động và sống ngoài 40 tuổi mới làm lãi cho xã hội. Ghosh cũng đã tính là ở ấn Độ, 22 % thu nhập quốc dân đã bị hao phí vào góp vốn đầu tư không hiệuquả, nghĩa là để nuôi dưỡng những đứa trẻ chết trước 15 tuổi.

Thiếu ǎn, thiếu vệ sinh là cơ sở cho những bệnh tăng trưởng. ở châu Phi mỗi nǎm có 1 triệu trẻ emdưới 1 tuổi chết vì sốt rét. Trực tiếp hay gián tiếp trẻ nhỏ dưới 5 tuổi ở những nước đang phát triểnbị chết do nguyên do thiếu ǎn tới 50 %. Ziegler nghiên cứu và điều tra về tai ương của nạn thiếu ǎn, đặc biệtlà châu Phi đã đi đến Kết luận ” Thế giới mà tất cả chúng ta đang sống là một trại tập trung chuyên sâu diệt trừ lớnvì mỗi ngày ở đó có 12 nghìn người chết đói “.

trái lại với thực trạng trên ở những nước côngnghiệp tăng trưởng lại đứng bên bờ vực thẳm của sự thừa ǎn, nổi lên sự chênh lệch quá đáng sovới những nước đang tăng trưởng. Ví dụ : Mức tiêu thụ thịt trung bình đầu người hàng ngày ở những nước đang tăng trưởng là 53 gam thìở Mỹ là 248 gam. Mức tiêu thụ sữa ở Viễn Đông là 51 gam sữa tươi thì ở châu âu là 491 gam, úclà 574 gam, Mỹ là 850 gam. ở Viễn Đông tiêu thụ trứng chỉ có 3 gam thì ở úc là 31 gam, Mỹ là 35 gam, dầu mỡ ở Viễn Đông là 9 gam thì ở châu âu là 44 gam, Mỹ 56 gam.

Về nhiệt lượng ở ViễnĐông là 2300 Kcalo, ở châu âu 3000 Kcalo, Mỹ 3100 Kcalo, úc 3200 kcalo. Nếu nhìn vào mứctiêu thụ thịt cá thì sự chênh lệch càng lớn, 25 % dân số quốc tế ở những nước tăng trưởng đã sử dụng41 % tổng protein và 60 % thịt cá của toàn quốc tế. Lấy mức ǎn của Pháp làm ví dụ : Mức tiêu thụ thực phẩm nǎm 1976 tính trung bình đầu người là84 kg thịt ( nǎm 1980 là 106 kg ), 250 quả trứng, 42 kg cá, 15 kg pho mát, 19 kg dầu mỡ, 9 kgbơ, 36 kg đường, 3 kg bánh mì, 73 kg khoai tây, 101 kg rau, 58 kg quả, 101 lít rượu vang, 71 lítbia.

Mức ǎn quá thừa nói trên đã dẫn đến thực trạng thừa dinh dưỡng. Theo Bour 20 % dân Phápbị bệnh béo phì, béo quá mức. ở những người béo trệ hiện tượng kỳ lạ tích góp mỡ phủ bọc ở những cơquan tǎng lên, thậm chí còn cả ở tim làm cho khả nǎng co bóp của tim yếu đi. ở những người béothường mắc bệnh vữa xơ động mạch, khi động mạch vành bị vữa xơ sẽ làm giảm lưu tốc máu, sự nuôi dưỡng tim bị kém. Hậu quả của thừa ǎn ngoài bệnh béo phì còn dẫn đến những bệnh tǎnghuyết áp, bệnh đái đường và những cơ quan bị nhiễm mỡ đặc biệt quan trọng là bệnh thiểu nǎng tim, thiểunǎng hô hấp, thiểu nǎng thận. Cũng theo Bour 15 % dân Pháp bị cao huyết áp, 3 % bị đái đườngvà tỷ suất tử trận tương quan đến bệnh tim mạch tới 35-40 % tương quan ngặt nghèo với nạn thừa ǎn.

Thực tế ở những nước đang tăng trưởng hiện tượng kỳ lạ thừa ǎn hầu hết là thừa nǎng lượng do proteinvà nhất là lỉpit, nhưng vẫn thiếu những chất dinh dưỡng khác đặc biệt quan trọng là những yếu tố vi chất dinhdưỡng. Nước ta đang phấn đấu thoát khỏi thực trạng bần hàn và suy dinh dưỡng, việc làm không phảilà thuận tiện sau nhiều nǎm cuộc chiến tranh. Song việc xử lý yếu tố dinh dưỡng ở nước ta khôngphải là việc phấn đấu đuổi kịp những nước về tiêu thụ những thực phẩm từ thịt, bơ sữa, dầu mỡ vàchất béo ǎn. Một mẫu thực phẩm tiêu thụ của những nước tăng trưởng với ảnh hưởng tác động không có lợi đốivới sức khỏe dẫn tới bệnh béo trệ, vữa xơ động mạch, cao huyết áp và đài đường, cũng như cácrối loạn chuyển hóa khác. Nhiệm vụ của những người làm dinh dưỡng nước ta là thiết kế xây dựng được bữa ǎn cân đối hợp lý, xử lý tốt yếu tố bảo đảm an toàn lương thực thực phẩm, sớm giao dịch thanh toán bệnh suy dinh dưỡngprotein nǎng lượng và những bệnh có ý nghĩa hội đồng tương quan đến thiếu những yếu tố vi chất.

IV. BữA ǍN HợP Lý ĐảM BảO NHU CầU DINH DƯỡNG

Các chất dinh dưỡng tham gia cấu trúc nên khung hình không phải là vật tư cố định và thắt chặt mà luôn đượcthay thế và thay đổi. Thành phần cấu trúc của một người nặng trung bình 50 kg gồm có khoảng chừng : – 32 kg nước – 11 kg đạm – 4 kg chất béo ( lipit ) – 2,5 kg chất khoáng – 0,3 – 0,5 kg gluxitNhờ có chất đồng vị phóng xạ, đến nay người ta đã xác lập là một nửa chất protein của cơ thểđược thay đổi trong vòng 80 ngày. Protein ở gan, ỏ máu thay đổi còn nhanh hơn, một nửa đổimới trong vòng 10 ngày.

Trong một đời người, chất protein hoàn toàn có thể thay đổi tới 200 lần. Ngoài nhu yếu ǎn để tăng trưởng cơthể khi còn trẻ, để thay đổi khung hình trong suốt đời người, người ta còn phải ǎn để bảo vệ nǎnglượng cho duy trì những hoạt động giải trí của cơ quan và lao động. Nǎng lượng tiêu tốn của khung hình đượccung cấp bởi thức ǎn. Thức ǎn ǎn vào được chuyển hóa thành dạng hóa nǎng sau đó đượcchuyển thành nhiệt nǎng để duy trì thân nhiệt, thành cơ nǎng để bảo vệ hoạt động giải trí và laođộng, thành điện nǎng để duy trì luồng điện sinh vật.

Tất cả những loại nǎng lượng nay cuối cùngđều chuyển thành nhiệt nǎng tỏa ra ngoài khung hình. Cho nên người ta chỉ cần đo nhiệt nǎng ( gọiquen là nhiệt lượng ) là đã biết được mức tiêu tốn nǎng lượng của khung hình. Có thể nhìn nhận mứcǎn có đủ hay không bằng cách theo dõi cân, đatm bảo cho mình có một cân nặng lý tưởng, người không quá gầy cũng không quá béo. Có thể dùng công thức sau đây để giám sát cân lýtưởng : P = 50 + 0,75 ( T – 150 ) Trong đó : P là khối lượng lý tường tính bằng kgT là chiều cao tính bằng cm.

Ví dụ : Một người cao 160 cm, thì cân nặng lý tưởng là : 50 + 0,75 ( 160 – 150 ) = 57,5 kg. Một người cao 170 cm thì cân nặng lý tưởng là : 50 + 0,75 ( 170 – 150 ) = 65 kg. Có thể tính nhanh bằng cách lấy chiều cao trừ đi 105 so với người trẻ tuổi và 110 so với ngườicó tuổi. Nếu sau một thời hạn lao động và ǎn uống ở một mức nhất định mà cân vẫn đứng, có nghĩa làmức ǎn đã tương thích với mức lao động. Bữa ǎn hài hòa và hợp lý còn phải phân phối những nhu yếu dinh dưỡng phức tạp của khung hình về những chất dinhdưỡng. Bảng tháp dinh dưỡng cân đối sau đây sẽ giúp tất cả chúng ta có khái niệm cơ bản để giảiquyết yếu tố này. Đảm bảo bảo đảm an toàn thực phẩm ở hộ mái ấm gia đình. – Về số lượng : Bình quân 2300 Kcalo / người / ngày, tối thiểu 2100 Kcal. – Về chất lượng : Cân đối 12 % protein, 18 % lipit, 70 % gluxit.

– Về vệ sinh : An toàn, không gây bệnh, hạn chế muối ǎn. Đối với bà mẹ : + Có thai ǎn thêm mỗi ngày 300 Kcalo + Cho con bú ǎn thêm mỗi ngày 500 Kcalo, trung bình tương tự Kcalo của 100 g gạo / ngày. – Đối với trẻ nhỏ dưới 3 tuổi : + Bú mẹ sớm trong 50% giờ đầu sau khi sinh + Bú trọn vẹn sữa mẹ trong 4 tháng đầu. Từ tháng thứ nǎm cho ǎn sam có chất lượng, tô màuđĩa bột, nhưng vẫn bú mẹ tối thiểu 12 tháng. Cố gắng cho con bú đến 18-24 tháng, ǎn nhiều bữa5-6 bữa / ngày, có thêm dầu để tǎng nǎng lượng.

– Đối với người lao động : ǎn theo lao động, càng lao động càng cần nhiều nǎng lượng và sốlượng thức ǎn cũng tǎng theo để bảo vệ đủ nhu yếu nǎng lượng tǎng lên do lao động. – Dồi với ngươi nhiều tuổi : ǎn giảm nǎng lượng dần theo lứa tuổi do giảm cường độ lao độngtrung bình giảm 30 % nǎng lượng. Giảm những thức ǎn như đường, bánh kẹo, nước ngọt. Tǎngcá và thức ǎn nguồn gốc thực vật, tǎng rau quảở tháp dinh dưỡng cân đối có đặc thù hướng dẫn chứng, chỉ có ý diễn đạt nhiều ít. Tất cả cácnhóm thức ǎn diễn đạt ở trên đều cần.

Muối tuy không phải là thực phẩm, chỉ là một gia vị, nhưngmuối có tương quan tới bệnh cao huyết áp nên cần hạn chế. Sau muối là đường ngọt, bánh kẹocũng cần được quan tâm để tránh lạm dụng : Không nên cho trẻ ǎn bánh kẹo trước bữa ǎn. Ngườicao tuổi cũng cần tránh dùng nhiều đường, bánh kẹo và nước ngọt .

TIN LIÊN QUAN

Dinh dưỡng và ăn dặm cho trẻ 7 tháng tuổi

kienthuc

35 loại thức ăn giàu dinh dưỡng bạn nên ăn hằng ngày

kienthuc

Dinh dưỡng y học giúp bồi bổ sức khỏe cho người lớn tuổi.

kienthuc